Tuyến
tiền liệt là một tuyến của hệ sinh sản nam. Trong khoảng 7 tuần lễ đầu
của thời kỳ bào thai, cơ quan hóa sinh dục dục của hai giời nam nữ có bề
ngoài giống nhau, sau đó mới biệt hóa và phát triển hình thái đặc thù,
cho từng giới cả bên trong lẫn bên ngoài. Tuyến tiền liệt có kích thước
như quả hạt dẻ, to, dẹt, chỉ có ở nam giới, nằm trước trực tràng, ngay
dưới bàng quang và bao quanh ống niệu đạo, gồm hai múi. Tuyến tiền liệt
(TTL) chính là vết tích của tử cung còn sót lại, thường không được biết
đến trừ phi nó to ra khi đã có tuổi.
Ở
tuổi trưởng thành thường có kích thước rộng 4cm x 3 cm cao x 2,5 cm
dầy, có khối lượng từ 15 – 25g, tiết ra chất nhờn và tạo nên một số
thành phần của tinh dịch. Dọc theo thân của TTL có các chuỗi mạch – thần
kinh (vasculo – nerveux) kích thích sự cương dương của dương vật. Bệnh
lý TTL thường gặp là viêm, phì đại lành tính và ung thư.
Viêm tuyến tiền liệt
Thường
xảy ra ở người có tuổi nhưng cũng có khi ở người trẻ. Nguyên nhân chính
thường do virus hoặc vi khuẩn. Viêm TTL bao gồm nhiều thể từ nhiễm
khuẩn cấp cho tới hội chứng đau mạn tính TTL. Hội chứng này có bốn thể
chính: Viêm TTL do nhiễm khuẩn cấp, ít gặp nhất nhưng lại dễ chẩn đoán
và điều trị nhất. Bệnh cảnh: Xảy ra đột ngột, trong nước tiểu có nhiều
bạch cầu và vi khuẩn. Sốt, gai rét, đau vùng thắt lưng và vùng sinh dục,
có cảm giác nóng rát hay đau khi đái.
Viêm
TTL mạn tính: Cũng do nhiễm khuẩn nhưng không xảy ra đột ngột. Chỉ có
triệu chứng nhiễm khuẩn bang quang hay tái diễn với cùng loại vi khuẩn.
Nguyên nhân có thể do một khuyết tật ở TTL nên vi khuẩn hay có ở đường
tiết niệu. TTL thường bình thường hay đau khi khám.
Hội
chứng đau mạn tính vùng tiểu khung và viêm mạn tính TTL không do nhiểm
khuẩn là thể thường gặp nhất nhưng cũng chưa được hiểu rõ nhất. Có thể
gặp ở mọi lứa tuổi ở nam, từ tuổi vị thành niên muộn trở đi (từ 17
tuổi), các triệu chứng hết rồi lại tái diễn một cách tự nhiên, có thể có
dấu hiệu viêm hay không.
Trong
thể viêm, nước tiểu, tinh dịch và các dịch của TTL không thấy bằng
chứng của vi sinh vật gây bệnh nhưng lại có chứa những loại tế bào mà cơ
thể thường tạo ra để chống lại sự nhiễm khuẩn.
Được
chẩn đoán là viêm TTL mà lại không có triệu chứng viêm khi người bệnh
không thể hiện triệu chứng gì nhưng vẫn có các tế bào chống lại sự nhiễm
khuẩn trong tinh dịch. Thường phát hiện ra một cách tình cờ khi thầy
thuốc tìm nguyên nhân hiếm muộn hay khi làm tét phát hiện ung thư TTL.
Viêm TTL không phải là bệnh lây truyền, đại đa số trường hợp không lây
lan qua quan hệ tình dục.
Trong một số trường hợp hiếm gặp, viêm tuyến tiền liệt thường phối hợp với những biến đổi về tần số xuất tinh.
Triệu
chứng bao gồm đau lưng, đau vùng tiểu khung, xuất tiết dịch đục ở dương
vật, thay đổi về tiểu tiện. Viêm tuyến tiền liệt do vi khuẩn thì điều
trị bằng kháng sinh. Viêm tuyến tiền liệt không do vi khuẩn thì điều trị
bằng phương pháp xoa bóp. Thầy thuốc cho ngón tay qua trực tràng rồi ép
nhịp nhàng vào tuyến tiền liệt.
Phì đại lành tính tuyến tiền liệt
Là
u thường có nhất ở nam giới. Ở tuổi trưởng thành, tuyến tiền liệt nặng
khoảng 20 gam. Ở một số người tuyến tiền liệt nhỏ đi nhưng đa số trường
hợp tuyến phì đại và trở thành u lành. Đối với nam giới trên 50 tuổi, tỷ
lệ này ở Việt Nam là 50 – 60% và 70 – 80% trên thế giới. Hai yếu tố
quan trọng gây u lành tuyến tiền liệt là tuổi và testosteron.
Phì
đại lành tính TTL là loại bệnh lý chính đứng hàng thứ 2: TTL phát triển
chèn ép vào niệu đạo và gây ra nhiều vấn đề tiết niệu như hay đi tiểu,
dòng nước tiểu yếu, đôi khi dừng và nhỏ giọt. Vì TTL vẫn phát triển
suốt thời kỳ trưởng thành cho nên phì đại TTL rất hay gặp ở nam giới
ngoài tuổi 50 và nam giới có tuổi cũng có nguy cơ cao bị ung thư TTL tuy
có ít hơn. Thăm khám qua trực tràng để đánh giá kích thước và độ cứng
của TTL, siêu âm hay chụp X-quang bang quang là những thăm dò thường
làm.
Phì
đại TTL cũng có thể dẫn đến các vấn đề về tiết niệu như viêm TTL. Đến
tuổi 60, nhiều nam có những dấu hiệu phì đại TTL. Đến tuổi 70, hầu hết
nam có TTL to ra ở mức độ nào đó. Trong trường hợp xấu nhất, phì đại TTL
có thể làm cho bang quang yếu đi, nhiễm khuẩn bang quang hay thận, tắc
dòng tiểu và suy thận. Sự thực là một số nam bị ung thư TTL cũng đã bị
phì đại TTL nhưng 2 bệnh không nhất thiết liên quan với nhau. Phần lớn
nam giới bị phì đại TTL không phát triển thành ung thư TTL nhưng vì các
triệu chứng sớm của 2 bệnh này giống nhau nên thầy thuốc cần đánh giá cả
hai.
Các
thể bệnh TTL có thể có các triệu chứng tương tự, ví dụ viêm và phì đại
TTL đều hay đi đái nhiều, buồn đái khẩn cấp; có người bị phì đại TTL bị
khó đái lúc đầu, người khác lại bị đái đêm hay có người bị ung thư TTL
lại không hề có triệu chứng gì ở giai đoạn đầu.
Bị
viêm và phì đại TTL không tăng khả năng vị ung thư TTL; nhưng cũng có
khi đồng thời bị cả hai thể bệnh. Vì thế mọi nam giới ngoài 45 đều nên
kiểm tra hàng năm TTL bằng PSA và thăm khám qua trực tràng. Ba quan ngại
thường gặp nhất ở nam là đái đêm nhiều, buồn đái khẩn cấp và bí đái.
Tuy nhiên, vì có nhiều lý do gây tăng PSA nên nếu nghi ngờ ung thư thì
làm sinh thiết.
Triệu
chứng lâm sàng chủ yếu của bệnh là rối loạn tiểu tiện. Mức độ rối loạn
nặng hay nhẹ thông qua những biểu hiện sau trong một tháng theo dõi:
- Cảm giác vẫn còn nước tiểu trong bàng quang sau mỗi lần đi tiểu xong?
- Sau khi tiểu xong phải đi tiểu lại trong khoảng thời gian chưa đến 2 giờ.
- Đang đi tiểu thì bị ngừng đột ngột rồi lại đi tiểu tiếp?
- Có bao nhiêu lần không thể nhịn được tiểu?
- Có bao nhiêu lần thấy tia nước tiểu yếu?
- Có bao nhiêu lần phải rặn gắng sức mới tiểu được?
- Trong một đêm thường phải đi tiểu mấy lần?
Không
có bệnh khi trả lời “không” ở tất cả các biểu hiện trên. Nếu có một số
hay thường xuyên những triệu chứng kể trên cần phải đến ngay cơ sở y tế
để khám và điều trị.
Điều
trị nội khoa u lành tuyến tiền liệt bằng cách sử dụng một trong các
thuốc ức chế sản xuất testosteron, thuốc ức chế phát triển, thuốc ức chế
thụ thể adrenergic có thể phối hợp với thuốc ức chế sản xuất
testosteron. Trong những trường hợp u quá to (> 60 gam), có phối hợp
sỏi bàng quang, sỏi thận… cần phải điều trị ngoại khoa.
Ung thư tiến liệt tuyến
Là
bệnh lý hay gặp nhất ở nam giới. Ung thư TTL xảy ra khi các tế bào của
TTL đột biến và sinh sôi phát triển nhanh không thể kiểm soát; những tế
bào này có thể lan xa (gọi là di căn) ra các bộ phận khác của cơ thể,
nhất là xương. Các hạch bạch huyết, trực tràng và bàng quang. Ung thư
TTL có thể gây đau, khó đái, rối loạn chức năng cương dương và nhiều
triệu chứng khác. Có nhiều yếu tố liên quan đến sự phát triển ung thư
TTL, trong đó có yếu tố gien và chế độ ăn uống. Năm 2008, có công trình
nghiên cứu nhận thấy finasteride giảm được tỷ lệ ung thư TTL khoảng 30%.
Nhiều
nam giới lo sợ không chỉ vì bệnh đe dọa tính mạng mà còn đe dọa cả cuộc
sống tình dục; hậu quả của nhiều phương pháp điều trị có thể ảnh hưởng
tới vấn đề kiểm soát bàng quang và chức năng cương dương. Nếu được phát
hiện sớm, khi ung thư mới chỉ giới hạn ở tuyến thì khả năng điều trị mới
có kết quả với tác dụng phụ tối thiểu. Khi ung thư đã lan ra ngoài
tuyến thì việc điều trị khó khăn hơn. Tuy nhiên vẫn có những phương pháp
điều trị giúp kiểm soát ung thư TL.
Càng
cao tuổi thì nguy cơ bị ung thư TTL càng tăng, 70 tuổi trung bình nam
giới Mỹ được chẩn đoán là ung thư TTL (ở độ tuổi 50, khoảng một phần ba
nam giới đã có một số tế bào ung thư ở TTL đến tuổi 80, số này tăng lên
khoảng ba phần tư). Theo dõi sự phát triển của TTL bằng cách khám qua
trực tràng hàng năm là rất cần thiết cho những người trên 40 tuổi, đó là
khuyến cáo của Hội Ung thư Mỹ. Cũng còn phương pháp mới là khám bằng
siêu âm qua trực tràng.
Ung
thư TTL là thường gặp nhất và là nguyên nhân gây tử vong thứ hai do ung
thư ở Mỹ sau ung thư da. Ở Mỹ, khoảng 11 người thì có thể 1 bị bệnh này
và hàng năm số bệnh nhân chết khoảng 25.000 người. Tiên lượng tốt nếu
được chẩn đoán và điều trị sớm.
Giai
đoạn đầu của ung thư TTL cũng không có triệu chứng gì, vì thế khi bệnh
nhân đến khám thì tỷ lệ đã có di căn tới 40% và tỷ lệ tử vong chiếm hàng
thứ ba sau ung thư phổi và ung thư đại – trực tràng ở nam giới cao
tuổi.
Cần
nhớ rằng ung thư TTL tác động đến nam giới nhiều nhưng không phải gây
nhiều tử vong cho nam giới vì theo Viện nghiên cứu về ung thư Quốc gia
Mỹ thì khoảng một phần năm nam giới Mỹ được chẩn đoán là bị ung thư TTL
nhưng chỉ có 3% nam giới Mỹ tử vong. Tại sao con số được chẩn đoán là
ung thư TTL lại nhiều hơn số tử vong đến thế? Chỉ có câu trả lời là ung
thư TTL tiến triển chậm hơn nhiều so với nhiều loại ung thư khác.
Nhiều
nam giới đã chung sống với nó trong nhiều năm. Nhiều người khác cố gắng
không điều trị mà chỉ theo dõi kỹ diễn biến bệnh, một phương pháp gọi
là “chờ đợi nhưng theo dõi tích cực”: Chiến lược đó là hàng năm kiểm tra
TTL; khám trực tràng bằng tay và làm tét xác định nồng độ PSA (sau tuổi
50) để phát hiện sớm ung thư TTL, khi đó việc điều trị có hiệu quả
nhất. Nhiều thầy thuốc cũng coi tét PSA và khám trực tràng là phương
pháp để tầm soát ung thư TTL cũng như để theo dõi sự tái phát.
Như
trên đã nói, ung thư tuyến tiền liệt thường không có triệu chứng gì vào
giai đoạn sớm, ngoài những thay đổi có thể phát hiện thấy khi thăm khám
trực tràng bằng tay hoặc siêu âm hoặc tình cờ phát hiện ra PSA tăng.
Tuy nhiên, đôi khi ung thư TTL cũng gây ra các triệu chứng thường tương
tự như phì đại lành tính TTL.
Những
dấu hiệu cần lưu ý bao gồm: Khi đái, dòng nước tiểu không còn mạnh như
trước; dò rỉ nước tiểu; đái dắt hoặc đái nhiều lần; đái đau; nước tiểu
có lẫu máu; đái đêm; đau vùng tiểu khung; đau bụng dưới.
Một
nguồn khác cho thấy bệnh ung thư TTL tiến triển ở đa số đàn ông với tốc
độ chậm tới mức cho đến cuối đời cũng khong có bất cứ dấu hiệu nào. Sự
thật một nửa số đàn ông 80 tuổi đều có tế bào ung thư trong TTL thế
nhưng đa số không chết vì bệnh này (Theo N and Z số 16/08).
Ung
thư TTL hay kết hợp với rối loạn chức năng tiểu tiện vì tuyến bao quanh
phần niệu đạo nằm trong tuyến. Do đó những thay đổi ở tuyến có ảnh
hưởng trực tiếp đến chức năng tiết niệu.
Ung
thư TTL đã tiến triển có thể lan tới các bộ phận khác của cơ thể và gây
thêm các triệu chứng. Các triệu chứng thường gặp nhất là đau xương,
thường đau ở cột sống, tiểu khung hay xương sườn. Ung thư di căn tới các
xương khác như xương đùi (thường ở phần gần trung tâm của xương), di
căn tới đốt sống cũng có thể gây chèn ép ống tủy, làm cho chân yếu, són
đái, són phân.
Cần phân biệt hai loại ung thư TTL:
Loại
ung thư TTL không gây ra dấu hiệu hay triệu chứng gì suốt cả đời, chỉ
đến khi chết, mổ tử thi mới phát hiện ra. Loại ung thư này không đe dọa
tuổi thọ hay chất lượng sống và không cần điều trị.
Loại
ung thư làm cho TTL phát triển to đến mức có triệu chứng và có nồng độ
PSA tăng, khám trực tràng có thể sờ thấy, loại này tiềm ẩn tiên lượng
xấu và có thể có diễn biến nghiêm trọng nếu không được điều trị.
(Theo Tri thức trẻ)
Địa chỉ: Trung tâm chăm sóc sức khỏe sinh sản Hà Nội. 38 Cảm Hội – Lò Đúc – Hà Nội.
|
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét